Ký ức hào hùng của một Cựu chiến binh
Tôi có ý định viết về anh từ lâu, song vì nhiều lý do nên cứ lần nữa mãi. Nay mới có dịp ngồi nghe anh kể về một thời trai trẻ xông pha chiến trận. Anh là Phạm Quang Hòa, sinh ngày 2/7/1947, quê ở thôn Quang Lãng, xã Quang Lãng, huyện Phú Xuyên, Hà Nội.
Quân Giải phóng tiến vào thành nội Huế Tết Mậu Thân, ngày 2/2/1968.
Năm 1964, đế quốc Mỹ bắt đầu “leo thang” chiến tranh ra miền Bắc, khi ấy mới bước sang tuổi 18, Hòa viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Được đơn vị cử đi học lớp báo vụ 7 tháng, ra trường, anh được biên chế làm lính thông tin vô tuyến điện (VTĐ) máy 15W ở Đại đội Thông tin 31, Tiểu đoàn 16, Sư đoàn 304 (Sư 304 có các Trung đoàn 9, 66, 68), do đồng chí Hoàng Kiền làm Sư đoàn trưởng và đồng chí Lê Hữu Đức làm Sư đoàn phó-Tham mưu trưởng.
Ngày 3/8/1965, anh cùng Trung đoàn 66 và Trung đoàn 68 “Nam tiến” theo đường Trường Sơn. Vào tới Binh trạm 4, bên sông làng Sinh, tỉnh Gia Lai, Trung đoàn 66 và 68 được bổ sung cho Sư đoàn 1, Quân khu 5 đang đứng chân tại Tây Nguyên. Ngày 21/10/1965, Trung đoàn 66 (Tổ đài của Hòa nằm trong đội hình Trung đoàn 66) “đụng đầu” ngay với Sư đoàn không vận số 1 Mỹ. Đây là Sư đoàn bộ binh có sức cơ động rất cao. Chúng có khoảng 500 trực thăng vận chuyển quân và trực thăng vũ trang.
Từ mùa khô năm 1966 đến năm 1968, Trung đoàn 66 tác chiến ở vùng sông Sa Thày, Đắc Tô, Tân Cảnh, Ngọc Hồi… Tháng 6 năm 1968, Trung đoàn 209 từ Bắc vào thay Trung đoàn 320. Cũng mới “chân ướt chân ráo” vào chiến trường, Trung đoàn đã đụng độ luôn với Sư đoàn không vận số 1 ở Chư Ba, Gia Lai. Khi đó, các đơn vị khác của Sư 1 cũng đang “căng” ra đánh địch trên các hướng nên không có điều kiện giải vây. Do vậy, lương thực, thực phẩm của Trung đoàn 209 cũng cạn kiệt. Sư đoàn chỉ thị cho Tiểu đoàn vận tải tìm cách bí mật tiếp lương cho Trung đoàn 209. Phạm Quang Hòa và tổ đài 15W cùng Tiểu đoàn vận tải tham gia tiếp lương thực, thực phẩm…Trung đoàn 209 trụ vững 15 ngày. Sang ngày thứ 16, được chi viện của Sư đoàn, Trung đoàn 209 phá vỡ vòng vây của địch.
Chiến dịch Tết Mậu Thân-1968, khi ấy Hòa là Đài trưởng 15W đi cùng Trung đội trinh sát của Sư đoàn vào Buôn Ma Thuột chuẩn bị cho chiến dịch. Trong chiến dịch Mậu Thân, Sư đoàn đã đồng loạt đánh địch ở Plây Cần; Đắc Dơ Keng trên đường 18. Trong chiến dịch này, Sư 1 đã đánh với Sư đoàn không vận số 1; Sư đoàn Tia chớp nhiệt đới và Sư đoàn Kị binh bay Mỹ. Đây là 3 Sư đoàn Mỹ rất thiện chiến, trang bị vũ khí hiện đại. Mặt đất có các loại pháo lớn như pháo 155mm, 175mm được chúng mệnh danh là “vua chiến trường”, rồi xe tăng và thiết giáp, súng phun lửa…Trên trời thì có phản lực yểm trợ, trực thăng vũ trang và trực thăng đổ quân. Có thể cùng một lúc chúng đổ quân chặn đầu khóa đuôi một đơn vị lớn của ta.
Chiến dịch kéo dài suốt từ Tết Mậu Thân tới 2 tháng sau. Tổ đài của Hòa phục vụ tại Trung đội trinh sát cho đến khi kết thúc chiến dịch.
Tháng 10 năm 1968, Tổ đài của Hòa được bổ sung cho Trung đoàn 209 cùng đơn vị hành quân vào miền Đông Nam bộ và bổ sung cho Sư đoàn 7. Đầu năm 1969, đơn vị đánh địch ở Mang Cải, Bình Long. Cuối năm 1970, khi ấy Hòa là Chuẩn úy, Trung đội phó Thông tin, rồi làm Trợ lý thông tin của Trung đoàn 209. Đơn vị đánh địch ở Thủ Dầu Một. Anh nhớ lại, hồi đầu năm 1970, đơn vị đánh địch ở Sa Mát, Tây Ninh, một trận thắng giòn giã, đơn vị đã diệt, phá hủy 86 xe vận tải chở đầy vũ khí của Mỹ trên Quốc lộ 22.
Tháng 4 năm 1970, các cơ quan Trung ương Cục miền Nam, Bộ Tư lệnh Miền đóng ở Tây Ninh. Nhằm tiêu diệt cơ quan đầu não miền Nam của ta, địch mở cuộc hành quân Chenahai, trong đó có Sư đoàn 5 Ngụy Sài Gòn. Chúng đánh từ hướng Đông Nam lên khu căn cứ của ta. Bên Campuchia, thì bọn Non Non đánh ép sang. Cơ quan đầu não của ta bị chúng ép trong hai gọng kìm. Trong cuộc hành quân này, bộ binh Mỹ không tham gia nhưng chúng chi viện tối đa cho ngụy về pháo binh cơ giới…dưới mặt đất. Còn trên trời có máy bay phản lực, trực thăng vũ trang và trực thăng đổ quân. Để bảo vệ cơ quan đầu não Miền Nam, ta đã tung ra hai sư đoàn là Sư 7 và Sư 9 miền Đông Nam bộ để phá cuộc hành quân của quân Ngụy.
Ngày 1 tháng 5 năm 1970, chiến dịch đánh trả cuộc hành quân Chenahai bắt đầu. Khi ấy Hòa là Trợ lý thông tin của Trung đoàn 209. Trung đoàn 209 được tham gia đánh địch ở khu vực Cầu Gỗ, Tây Ninh trực tiếp bảo vệ các cơ quan đầu não Miền. Trong chiến dịch này, Sư 7 và Sư 9 đã đánh Sư đoàn 5 ngụy tan tác, chúng thiệt hại nặng nề. Ta phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh. Riêng mặt trận đánh lại bọn Non Non, ta thu 13 xe tăng của địch ở phum Ot Thơ Mây bên Camphuchia.
Là chiến sĩ báo vụ, Đài trưởng 15W, rồi Trung đội trưởng thông tin VTĐ, Trợ lý thông tin Trung đoàn, trong mọi cương vị công tác, tham gia phục vụ các chiến dịch lớn nhỏ…Phạm Quang Hòa đã góp phần bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt giữa các đầu mối chỉ huy, lãnh đạo góp phần làm nên chiến thắng. Đặc biệt trong chiến đấu hiệp đồng các quân binh chủng trong các chiến dịch lớn, đòi hỏi mạch máu thông tin phải nhanh chóng kịp thời, chính xác. Những nhiệm vụ thầm lặng của người chiến sĩ thông tin ít người biết đến nhưng họ đã góp phần đắc lực làm nên chiến thắng.
Do nhu cầu của cuộc kháng chiến, việc đào tạo cán bộ chiến sĩ kỹ thuật thông tin để bổ sung cho chiến trường là rất cần thiết nên tháng 1/1971, Hòa được cử về Trường Quân chính miền Đông Nam bộ học 4 tháng. Sau khóa học, anh được giữ lại Trường làm giáo viên đào tạo báo vụ VTĐ. Anh công tác ở Trường cho đến ngày giải phóng miền Nam.
Năm 1976, anh ra tập huấn tại Trường Sĩ quan Lục quân 1 trong 6 tháng, rồi được điều về Trường Sĩ quan Lục quân II ở Long Thành. Năm 1978 anh được đề bạt làm Đại đội trưởng. Tháng 7 năm 1979, anh được cử về học 3 năm tại Học viện Lục quân Đà Lạt. Sau khi tốt nghiệp, anh được cử giữ chức Phó Trung đoàn Trưởng kiêm Tham mưu trưởng Trung đoàn 883, Sư đoàn 381 Quân khu 3. Năm 1984, anh được điều về giữ chức Phó Trung đoàn trưởng, Tham mưu trưởng Trung đoàn 584, Sư đoàn 432 Quân khu 3. Năm 1990, Phạm Quang Hòa nghỉ hưu với quân hàm Trung tá.
Về địa phương, tháng 3/1991, Đại hội chi bộ, anh được bầu giữ chức Bí thư chi bộ thôn Quang Lãng. Anh cùng tập thể chi ủy, chi bộ lãnh đạo phong trào địa phương và luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ.
Người lính trở về sau chiến tranh, kinh tế gia đình rất khó khăn, anh Hòa xin nghỉ công tác để lo đời sống gia đình. Mấy năm bươn trải ngược xuôi, kinh tế gia đình tạm ổn, anh trở lại công tác ở địa phương. Từ năm 2001 đến 2004, anh được bầu làm Bí thư chi bộ thôn và kiêm phó Chủ tịch Hội CCB xã Quang Lãng. Từ năm 2007 đến 2012, anh làm Chủ tịch Hội CCB xã Quang Lãng. Từ tháng 6 năm 2012 đến nay, anh làm Phó Chủ tịch Hội CCB huyện Phú Xuyên. Trên các cương vị công tác, anh cùng tập thể đều hoàn thành tốt nhiệm vụ. Riêng phong trào CCB huyện Phú Xuyên liên tục nhiều năm liền đều được Trung ương Hội CCB Việt Nam, Hội CCB thành phố Hà Nội tặng Bằng khen và Cờ thi đua là đơn vị xuất sắc của Thành phố. Những thành tích đó có đóng góp không nhỏ của CCB Phạm Quang Hòa, người luôn giữ vững và phát huy bản chất truyền thống Bộ đội Cụ Hồ.
Phạm Bá Dực